Xã hội

Tăng tiền trợ cấp xã hội lên 500.000 đồng/người/tháng từ năm 2025

Cục Bảo trợ xã hội (Bộ LĐ-TB-XH) cho rằng mức trợ cấp xã hội hiện nay còn quá thấp, cần tăng mức tiền hỗ trợ và mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp.

Tại Hội nghị Tổng kết 15 năm (2004-2019) thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi phía Bắc diễn ra hôm nay (25/9), đại diện Cục Bảo trợ xã hội - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) đã cho biết, Bộ sẽ trình Chính phủ một nghị định mới theo hướng nâng mức trợ cấp hằng tháng lên 360.000 đồng vào 1/1/2021 và lên 500.000 đồng từ ngày 1/1/2025.

Tăng tiền trợ cấp xã hội lên 500.000 đồng/người/tháng từ năm 2025
Toàn cảnh hội nghị.

Theo đại diện Cục Bảo trợ xã hội, hiện mức trợ cấp xã hội hằng tháng quá thấp, chỉ 270.000 đồng/người nên cùng với nâng mức trợ cấp, Cục Bảo trợ xã hội cho biết cũng cần mở rộng diện trợ cấp đến một số nhóm đối tượng rất khó khăn như trẻ em mồ côi, người cao tuổi vùng dân tộc miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa.

Ngoài ra, cơ quan này cũng sẽ tham mưu bộ, Chính phủ xây dựng các chính sách, cơ chế để đẩy mạnh cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội cho đối tượng có hoàn cảnh khó khăn theo hướng chất lượng, hiệu quả, tính chuyên nghiệp; phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp làm công tác xã hội; phát triển các dịch vụ chỉnh hình, phục hồi chức năng và dịch vụ y tế xã hội; cải cách quản lý nhà nước về trợ giúp xã hội theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết chính sách an sinh xã hội, xây dựng mã số an sinh xã hội...

Ông Phạm Quang Phụng, Vụ trưởng Vụ kế hoạch tài chính Bộ LĐ -TB-XH cho biết, sau 15 năm triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, tỉ lệ nghèo các tỉnh vùng trung du miền núi phía Bắc giảm nhanh, từ gần 40% năm 2005 đã giảm xuống còn 31,4% (năm 2010), 267% (năm 2015) và tính đến đầu năm 2019 chỉ còn là 16%.

Đặc biệt, tỉ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm.

Đến hết năm 2018, toàn vùng có 7 huyện thoát nghèo, hơn 70 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực đạt chuẩn nông thôn mới.

Theo ông Phụng, mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu hằng năm giảm bình quân 1,5% hộ nghèo (riêng các huyện nghèo/ xã nghèo giảm 4%; hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3-4%).

Báo cáo của Bộ LĐ -TB-XH cho biết tính đến hết năm 2018, cả nước có khoảng 3 triệu người hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, nâng độ bao phủ lên gần 3% dân số, trên 17,8 triệu người được hỗ trợ mua toàn bộ hoặc hỗ trợ một phần BHYT.

Trong đó, khu vực trung du miền núi Bắc bộ có gần 700.000 người hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, kinh phí trợ giúp xã hội hằng tháng, cấp thẻ BHYT của khu vực là gần 4.000 tỉ đồng.

"Trong tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu, ngân sách còn khó khăn nhưng nhà nước vẫn ưu tiên đầu tư cho an sinh xã hội, trợ giúp xã hội. Tổng chi của ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương cho trợ giúp xã hội tăng nhanh từ 8.850 tỉ đồng (năm 2009) lên gần 20.000 tỉ vào năm 2018. Tỉ lệ chi trợ giúp xã hội trong GDP tăng từ 0,53% lên 0,85% trong thời gian từ 2009-2018", ông Phụng cho biết.

Bộ LĐ-TB-XH cũng đặt mục tiêu đến năm 2030: 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; tiếp tục mở rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước được hưởng trợ cấp xã hội. 80% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.

Giai đoạn 2025-2030, phấn đấu nâng quy mô tuyển sinh đạt trên 4,6 triệu người mỗi năm; ít nhất 85% người học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo; có 70 trường được công nhận trường chất lượng cao, trong đó có tối thiểu 5 trường đạt cấp độ các nước phát triển trong nhóm G20; 40 trường tiếp cận cấp độ các nước ASEAN-4; phấn đấu có tối thiểu 20% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập tự chủ về tài chính.

Theo Nguyễn Trang (VOV.VN)