Hỏi - Đáp

Tại sao người xưa nói: Nghĩa vợ chồng là kết tóc se tơ?

Chúng ta thường nghe người xưa nói “Tình nghĩa vợ chồng kết tóc se tơ”. Vậy theo quan niệm của người Á Đông xưa, “kết tóc” nghĩa là gì? Và nguồn gốc của từ “se tơ” là từ đâu?

Người xưa bình thường dù là nam hay nữ cũng đều để tóc dài. Con trai đến 20 tuổi phải được làm lễ đội mũ (quán lễ) hay còn gọi là “lễ trưởng thành”, tức nghi thức kéo bộ tóc dài lên cao và búi lại, rồi đội mũ lên để biểu thị là đã trưởng thành. Vì thế con trai hai mươi tuổi được gọi là “nhược quán“.

Thời xưa gọi những bé gái chưa đến tuổi trưởng thành thường được gọi là “nha đầu“, cũng có hàm nghĩa chỉ sự gần gũi thân thiết. Ngoài ra thời xưa những nhà giàu cũng thường gọi nha hoàn người ở trong nhà là “nha đầu“. Ý nghĩa thực sự của từ “丫头”(nha đầu) thời xưa là để chỉ một kiểu búi tóc của nữ giới. Giống như trong phim “Hồng Lâu Mộng” những người hầu gái thường giúp chủ nhân của mình chia tóc thành hai phần và kết cột lại thành hai bên đối xứng trên đỉnh đầu, phân nhánh giống như chữ “丫”.

Khi người con gái đến mười lăm tuổi thì cử hành “lễ cài trâm” (kê trâm tử lễ). Trong nghi thức này người ta cuộn tóc thành một búi, rồi cài thêm một cái trâm vào, để biểu thị là đã trưởng thành. Vì thế con gái mười lăm tuổi cũng được gọi là “cập kê“.

Đến đời Hán, Tô Vũ có câu thơ:

“Kết phát vi phu thê, Ân ái nhi bất nghi”.

Nghĩa là: Kết tóc thành vợ chồng, Ân ái mà không nghi ngờ.

Về sau vì có câu thơ này cho nên “kết tóc” lại còn có nghĩa là kết hôn và cũng chỉ người vợ.

Tại sao người xưa nói: Nghĩa vợ chồng là kết tóc se tơ?

Kết tóc

Con trai con gái, sau khi kết tóc được coi là đã trưởng thành, có thể tính chuyện hôn nhân. Và những người kết hôn gọi là vợ chồng kết tóc. Kết tóc hay còn được gọi là buộc tóc, người con trai từ khi còn nhỏ đã bắt đầu nuôi tóc và buộc tóc cho tới khi bắt đầu trưởng thành. Kết tóc cũng mang hàm ý chỉ sự kết hôn.

Trong đám cưới của người Trung Hoa xưa, vào đêm tân hôn hay còn gọi là đêm động phòng hoa trúc, tân lang và tân nương sẽ thực hiện một nghi thức gọi là: “Giao ti kết long phượng, lũ thải kết vân hà, nhất thốn đồng tâm lũ, bách niên trường mệnh hoa”, nghĩa là: Tân lang và tân nương sẽ cùng ngồi trên giường, người con trai ngồi bên trái người con gái ngồi bên phải, mỗi người tự cắt một nhúm tóc của mình. Sau đó dùng sợi tóc dài nhất kết thắt lại bó buộc chặt với nhau, để biểu hiện vợ chồng kết tóc đồng tâm, mãi mãi yêu thương, sống chết có nhau mãi mãi không chia lìa. Luôn yêu thương ân ái tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng không nghi ngờ lẫn nhau.

Từ “kết” trong từ “kết tóc” có bao hàm một ý nghĩa vô cùng huyền diệu, ý nghĩa của từ “kết” là bao hàm ý nghĩa vững chắc, kết hợp, kết giao. Trong đám cưới của người xưa, tân nương không được tự mình tháo búi tóc trên đầu. Theo ghi chép trong cuốn sách cổ thư: “Nghi lễ Thổ hôn lễ” về hành lễ trong khi kết hôn có đoạn: “Chủ nhân nhập thất, thân thoát phụ chi anh”. Nghĩa là: Chỉ có tân lang mới có thể tháo búi tóc của tân nương, mới có thể bỏ khăn trùm đầu của cô dâu. Do đó, mọi người thường gọi những cặp vợ chồng kết hôn lần đầu tiên sau khi trưởng thành là “kết phát phu thê” (vợ chồng kết tóc).

Vào thời nhà Hán người Trung Quốc xưa còn có một phong tục khi tổ chức tang lễ cũng có liên quan như sau. Nếu như người vợ không may mắc bệnh qua đời, người chồng sẽ phải bẻ chiếc lược hai vợ chồng dùng hằng ngày làm đôi. Một nửa còn vương những sợi tóc của người vợ lưu lại bên mình, còn một nửa bỏ vào quan tài trôn theo người chết để biểu hiện mãi mãi không quên người vợ đã kết tóc se tơ với mình, mãi mãi ghi nhớ tình cảm vợ chồng ân ái sâu đậm.

Trong “Ngọc thái tân vịnh cổ thi vi tiêu trọng khanh thê tác” có viết : “Kết phát đồng chẩm tịch, hoàng tuyền cộng vi hữu.” Tạm dịch: Kết tóc chung chăn gối, hoàng tuyền cùng làm bạn. Chúng ta vừa tìm hiểu về tục “kết tóc” và ý nghĩa vợ chồng sâu sắc bên trong của phong tục đó của người Trung Quốc xưa. Vậy còn “se tơ” có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào?

"Ông Tơ bà Nguyệt"

“Ông Tơ bà Nguyệt” gọi tắt là “Nguyệt lão” hoặc là “ông già ngồi dưới trăng”. “Ông Tơ bà Nguyệt” là nhân vật nổi tiếng thời cổ đại của Trung Hoa, là thần nắm giữ việc mai mối hôn nhân trong thần thoại Trung Quốc, là “bà mối” trong thiên hạ, chủ trì nhân duyên của cả nam và nữ. Theo quan niệm của người Trung Quốc cổ xưa, hôn nhân do trời định và được “ông tơ bà Nguyệt” se duyên nên người con trai và người con gái mới đến được với nhau.

Truyền thuyết dân gian kể lại rằng, vào thời nhà Đường, có một thư sinh tên là Vi Cố, trên đường đi đến Tống thành nghỉ tại một nhà trọ. Buổi tối anh ta ra ngoài đi dạo bộ thì gặp một ông lão trên lưng khoác một chiếc túi vải đang ngồi đọc sách. Vi Cố kinh ngạc, lập tức tiến đến trước mặt ông lão hành lễ rồi hỏi: “Vì sao đã hơn nửa đêm rồi mà ông còn ngồi một mình ở đây?”.

Ông lão trả lời: “Ta đang xem sách hôn nhân! Cuốn sách này ghi lại quan hệ nhân duyên của con người trong thế gian”. Vi Cố nhìn thấy một túi gấm to bên cạnh ông lão thì lại hiếu kỳ mà hỏi. Ông lão không trực tiếp trả lời mà lấy ra một sợi chỉ hồng từ trong túi gấm, loáng một cái trong không trung xuất hiện một đường ánh sáng màu đỏ sáng rực rồi lấp lánh ở dưới chân của Vi Cố. Ông lão nói với Vi Cố rằng: “Sợi chỉ hồng này dùng để buộc chặt chân của hai người sẽ trở thành vợ chồng. Cho dù hai người là kẻ thù của nhau, dù là ở cách xa nhau vạn dặm, chỉ cần sợ chỉ này thắt vào chân hai người thì họ sẽ cả đời không thể tách rời nhau”.

Vi Cố nhìn thấy việc hôn sự của mình vừa được ông lão định rồi liền sốt ruột hỏi vợ mình là ai. Ông lão chỉ nói một câu: “Con gái của bà lão bán rau ở chợ phía bắc”. Nói xong, ông lão liền biến mất. Sáng sớm hôm sau, Vi Cố vì muốn nhìn thấy người vợ tương lai của mình như thế nào nên ăn mặc sạch đẹp đi về nơi mà ông lão đã nói. Anh ta chỉ nhìn thấy một bà lão bế một bé gái xấu xí nên vô cùng bực bội và buồn bã. Anh ta lệnh cho người hầu phải giết chết bé gái này. Người hầu sau khi đâm một nhát trúng lông mày của bé gái đó liền sợ hãi bỏ chạy.

15 năm sau, Vi Cố thành thân. Anh ta lấy con gái của vị quan thứ sử Tương Châu làm vợ. Lúc động phòng, nhìn thấy người vợ xinh đẹp như hoa, Vi Cố vô cùng ưng ý và mừng rỡ. Chỉ có điều, trên lông mày của người vợ này có một vết thương lớn. Vi Cố sau khi hỏi rõ nguyên do của vết thương này mới biết rằng, vợ anh ta chính là bé gái năm xưa từng bị chính mình ghét bỏ mà làm hại. Sau đó vì mất mẹ nên được vị quan thương tình nhận về làm con. Vi Cố vô cùng xấu hổ, cho nên càng dùng tâm đối xử thật tốt với vợ mình. Hai vợ chồng họ sống hạnh phúc đến lúc đầu bạc.

Sau này, câu chuyện của Vi Cố được truyền đến Tống thành. Người dân Tống thành vì để tưởng niệm Nguyệt lão liền đem “Nam điếm” đổi tên thành “Đính hôn điếm”. Từ đó về sau, câu chuyện về Nguyệt lão dần dần được lưu truyền cho đến ngày nay. Mọi người cũng tin tưởng rằng, nhân duyên giữa nam và nữ là do Nguyệt lão kết thành. Người ta bắt đầu dựng lập tượng và chùa thờ cúng Nguyệt lão. Các chàng trai và cô gái mong muốn có mối nhân duyên tốt đều đến những ngôi chùa này để cầu phúc, hy vọng Nguyệt lão cho mình một mối nhân duyên tốt đẹp.

Dung (Nguoiduatin.vn)