Hỏi - Đáp

Tại sao năm mới bắt đầu từ ngày 1 tháng 1?

Dù ngày mùng 1/1 là phổ biến nhất đối với hầu hết nền văn minh phương Tây và rồi lan rộng khắp thế giới. Nhưng nếu chặng đường hai thiên niên kỷ vừa qua của nhân loại đã diễn ra chệch đi một chút thì có lẽ chúng ta đã đón năm 2021 ở một thời điểm nào khác.

Lễ đón năm mới đầu tiên được ghi nhận là từ nền văn minh Lưỡng Hà, nơi mà cách đây 4.000 năm, những người Babylon cổ đại đã tổ chức lễ hội kéo dài 11 ngày có tên là Akitu vào dịp xuân phân. Đây là thời điểm gần cuối tháng 3, khi mà ngày và đêm dài bằng nhau. Đó là một lựa chọn năm mới khá phổ biến của nhiều nền văn minh. Những xã hội khác, trong đó có người Ai Cập, Ba Tư và Phoenicia thì chọn ngày thu phân - gần cuối tháng 9. Trong đó người Hy Lạp lại chọn ngày đông chí vào tháng 12.

Vậy thì tại sao trong số tất cả những lựa chọn phổ biến đó thì ngày 1 tháng 1 lại xuất hiện và trở thành ngày đón năm mới phổ biến?

Tại sao năm mới bắt đầu từ ngày 1 tháng 1?

Câu chuyện bắt đầu từ người La Mã. Khác với những người đi trước, họ không gắn năm của mình với một sự kiện thiên văn nào đó. Thay vào đó, lịch của thể chế mang tính cộng hòa này được tính từ ngày bầu ra cơ quan cao nhất khi đó là các quan chấp chính. Theo truyền thống, ban đầu ngày bắt đầu năm mới này được lựa chọn là ngày 15 tháng Ba, tháng mà người La Mã đặt tên thần chiến tranh Mars. Tuy nhiên, vào năm 154 trước Công nguyên, để đối mặt với cuộc nổi dậy ở Tây Ban Nha, Viện nguyên lão đã quyết định bầu ra hai quan chấp chính sớm hơn một chút và ngày được chọn là ngày mùng 1 tháng 1 ngày nay.

Tuy nhiên, lịch La Mã vẫn còn một thứ cần sửa đổi, cụ thể là 10 ngày bị thiếu. Lịch của La Mã chỉ đếm 355 ngày, tức ngắn hơn một chu kỳ quỹ đạo của Trái đất (khi đó người ta không biết Trái đất di chuyển quanh Mặt trời nên thực chất đó là chu kỳ để Mặt trời trở lại vị trí cũ trên bầu trời). Để điều chỉnh cho đúng, các đại tư tế La Mã đã ban hành thêm một tháng gọi là Mercedonius.

Theo lý thuyết, nó được chèn vào để sao cho đuổi kịp khoảng thời gian bị thiếu do chênh lệch giữa lịch và chu kỳ của năm Mặt trời. Tuy nhiên, trên thực tế thì cuối cùng việc này lại thành công cụ để các đại tư tế tham nhũng bằng cách thao túng lịch theo cách của họ để kéo dài thời hạn mà họ có với các đồng minh.

Vào thời điểm mà Julius Caesar nắm quyền ở Rome - năm 46 TCN, ông phải đối mặt với không chỉ một cuộc nội chiến mà còn cả một cuộc khủng hoảng về thời gian.

Vì bị sửa đổi trong nhiều thế kỷ, lịch của La Mã vào lúc đó đã rơi vào sự lộn xộn đến vô vọng. Để giải quyết việc này, nhà độc tài đã cho mời Sosigenes - một triết gia ở Alexandria mà ông đã gặp khi tới thăm Ai Cập trong chiến dịch quân sự của mình.

Mượn ý tưởng có sẵn từ quê hương mình, Sosigenes đã giới thiệu loại lịch 365 ngày. Một trong những điểm nổi bật của nó là ngày nhuận được đưa vào 4 năm một lần để đuổi kịp thực tế là năm Mặt trời dài hơn một chút so với 365 ngày. Ptolemy III Euergetes của Ai Cập đã cố gắng đưa nó vào nhưng thất bại tại Ai Cập vì thần dân của ông phản đối sự bổ sung bất thường này.

Hệ thống mới của Rome bảo toàn nhiều phần trong lịch trước đó, bao gồm cả hệ thống 12 tháng cùng tên của chúng (trừ tháng 7 sau đó được đổi tên theo tên của Julius Caesar (July), còn tháng 8 đổi theo tên của hoàng đế sau đó là Augustus (August). Nó cũng giữ nguyên ngày đón năm mới là mùng 1 tháng 1. Việc đó vừa để bảo tồn truyền thống, vừa để ca ngợi thần Janus - vị thần hai mặt biểu tượng của sự khởi đầu.

Năm 46 TCN (một năm đặc biệt vì nó kết thúc khi mới có 445 ngày), năm tiếp theo là năm 45 TCN, khởi đầu của lịch Julius (cũng lấy theo tên của Caesar). Người La Mã đã để lại di sản này cho các thế hệ sau và mô hình này đã thống trị hệ thống tính thời gian của phương Tây trong 16 thế kỷ. Tuy nhiên, cuối cùng thì nó vẫn chưa hoàn hảo.

Lỗi chính của lịch như nêu trên là nó mặc nhiên rằng một năm có 365,25 ngày. Những tính toán sau này cho ra một kết quả chính xác hơn là 365,2422 ngày. Phần thập phân đó tương ứng với 5 giờ 48 phút và 46 giây chứ không phải tròn 6 giờ. Một phần nhỏ bé đó không có gì to tát, nhưng nếu cộng gộp hàng trăm năm lại, nó sẽ là vấn đề lớn.Việc đó làm cho thế kỷ 16 bị chệch ít nhất là 10 ngày, khiến Giáo hoàng Gragory XIII rơi vào tình thế khó xử.

Năm 1582, Giáo hoàng quyết định hành động. Các nhà thiên văn đã bỏ đi 10 ngày của năm đó để điều chỉnh lịch Lulius thành lịch Gregory (lấy theo tên của Giáo hoàng). Đồng thời, họ điều chỉnh lại quy tắc tính năm nhuận thành quy tắc mà chúng ta vẫn dùng cho tới tận ngày nay.

Quy tắc bổ sung đó là sẽ không có ngày nhuận trong những năm tròn thế kỷ (thông thường các năm có số năm chia hết cho 4 đều là năm nhuận), chẳng hạn 1700, 1800, trừ những năm chia hết cho 400. Như thế có nghĩa là năm 2000 là năm nhuận, còn năm 1900 và năm 2100 thì không.

Một lần nữa, hệ thống mới lại vượt xa hệ thống cũ về độ chính xác. Phần lớn vùng Công giáo của châu Âu, trong đó có Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Italia chấp nhận việc này ngay tức khắc. Nhưng một số nước đã từ chối việc này trong hàng thế kỷ. Đó là hầu hết các quốc gia theo Tin Lành hoặc Chính thống giáo Phương Đông. Dù vậy, lịch Greory dần tiếp cận và thay đổi từng nền văn hóa vì sự chính xác không thể chối cãi của nó.

Một số quốc gia sử dụng lịch Gergory vẫn kỉ niệm năm mới theo truyền thống của họ (chẳng hạn như Việt Nam và một số nước phương Đông vẫn kỷ niệm Tết Nguyên đán theo Âm lịch). Nhưng cuối cùng, ngày mùng 1 tháng 1 theo cách tính ngày nay là chung nhất và nó là kết quả của một giai đoạn lịch sư kéo dài hơn hai thiên niên kỷ.

Dung (Nguoiduatin.vn)