Chiều ngày 30/8/1945 tại Quảng trường Ngọ Môn (Huế), trong lễ thoái vị của vua Bảo Đại, nhà sử học Trần Huy Liệu thay mặt phái đoàn đại diện Chính phủ VNDCCH đón nhận cặp ấn kiếm từ vị vua cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Chiều ngày 30/8/1945 tại Quảng trường Ngọ Môn (Huế), trong lễ thoái vị của vua Bảo Đại, nhà sử học Trần Huy Liệu thay mặt phái đoàn đại diện Chính phủ VNDCCH đón nhận cặp ấn kiếm từ vị vua cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Chiếu thoái vị chính thức chấm dứt chế độ quân chủ ở Việt Nam, được vua Bảo Đại viết vào ngày 25/8/1945 tại điện Kiến Trung. Ngày 29/8, khi làm việc với phái đoàn đại diện Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội vào, vua Bảo Đại đã trao tờ chiếu cho vị trưởng đoàn là nhà Sử học Trần Huy Liệu. Ông Trần Huy Liệu đã đạt được thỏa thuận với vua Bảo Đại là sẽ tổ chức một buổi lễ để nhà vua công khai tuyên bố trước quốc dân đồng bào, để mọi người đều được biết sự cảm hóa của cách mạng tháng Tám, và nhà vua đã tự nguyện thoái vị, trao quốc ấn và quốc kiếm, bảo vật tượng trưng cho quyền lực của vương triều.
Lính ngự lâm dâng ấn kiếm trong lễ trao lại ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại. Ảnh tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân. |
Rơi vào tay người Pháp
Theo nhiều tài liệu lịch sử, báo chí, đặc biệt là hồi ký của cụ Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền Văn phòng Tổng lý của vua Bảo Đại, chúng ta được biết vào tháng 12/1946, nhiều tài liệu quan trọng, các bảo vật của nhà nước được chuyển lên An toàn khu, hoặc chôn giấu ở Hà Nội. Cuối năm 1946, trong lúc đào đất xây dựng công trình quân sự ở ngoại thành Hà Nội, lính Pháp tìm thấy một cái thùng dầu hỏa bằng sắt, bên trong đựng một cái ấn và một cái kiếm bị bẻ gãy làm đôi. Ngày 8/3/1952, người Pháp tổ chức lễ trao lại ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại. Sự kiện này được báo Paris Match dành một số đặc biệt đăng bài tường thuật, có nhiều hình ảnh minh họa là tư liệu lịch sử vô cùng quý giá.
Người Pháp trả lại ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại là có lý do chính trị. Khi thành lập cái gọi là “Chính phủ quốc gia” do Bảo Đại đứng đầu, người Pháp long trọng tổ chức lễ trả lại ấn kiếm nhằm gây tác động tâm lý đối với nhân dân vùng tạm chiếm, với hàm ý “vua đi rồi vua lại về”. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30/8/1945, nay cựu hoàng Đại đã trở về làm Quốc trưởng.
Năm 1996, một nhân chứng quan trọng là bà Mộng Điệp, thứ phi của vua Bảo Đại, kể chuyện này với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân (Huế) khi ông “Qua Pháp tìm Huế xưa”, như sau: “Họ trả lại ấn kiếm cho nhà Nguyễn nhưng ông Bảo Đại lúc ấy đang nghỉ mát ở bên Tây, không ai đủ tư cách để nhận lại cả. Ông Lê Thanh Cảnh làm việc cho Pháp thấy thế gọi dây nói lên Buôn Mê Thuột gặp tôi. Nhưng tôi chưa thấy những báu vật ấy bao giờ, không biết có đúng hai cái ấn kiếm mà ông Bảo Đại đã trao cho ông Trần Huy Liệu năm 1945 hay không (!). Tôi phân vân nên đã mời Đức Từ Cung ở Huế đi tàu bay lên.
Cặp ấn kiếm của vua Bảo Đại giờ ở đâu? - ảnh 2 Ấn Hoàng đế chi bửu. Ảnh tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân. |
Cha giữ ấn, con giữ kiếm?
Chiếc ấn được vua Bảo Đại trao cho đại diện Chính phủ VNDCCH vào ngày 30/8/1945 là một trong hàng chục ngọc tỷ và bửu ấn của triều Nguyễn. Theo các công trình nghiên cứu về ấn chương, bửu tỷ, triều Nguyễn có 24 kim tỷ và ngọc tỷ (ấn bằng vàng và bằng ngọc), được xếp vào loại Quốc bảo. Mỗi ấn được sử dụng cho một loại văn bản nhất định.
Theo ông Paul Boudet - người đã được ông Phạm Quỳnh, với sự đồng ý của vua Bảo Đại, cho xem các tỷ, ấn của các vua Nguyễn được bảo quản trong điện Càn Thành, thì các vua Nguyễn có đến 46 chiếc tỷ, ấn mà phần lớn được chế tạo sau thời Minh Mạng cho đến thời Khải Định. Sau Cách mạng tháng 8/1945 những bảo vật này được bàn giao cho Chính phủ Việt Nam DCCH. Người nhận bàn giao là ông Lê Văn Hiến, nguyên Bộ trưởng bộ Tài Chính. Hiện tại phần lớn kim tỷ và ngọc tỷ triều Nguyễn đang được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Cặp ấn kiếm do vua Bảo Đại trao cho chính quyền Dân chủ Nhân dân trong ngày đầu lập quốc được quan tâm đặc biệt là vì giá trị lịch sử của nó.
Cũng theo bà Mộng Điệp, sau khi Hoàng hậu Nam Phương qua đời (1963), cặp ấn kiếm lịch sử đó nằm trong tay Hoàng thái tử Bảo Long. Năm 1980, ông Bảo Đại xuất bản tập hồi ký Le Dragon d’ Annam (Con rồng An Nam), ông muốn dùng con dấu lịch sử đó để làm vi-nhét đặt vào cuối các chương hồi ký nhưng Bảo Long không cho mượn. Ông Bảo Đại hết sức bực mình nhưng không làm gì lay chuyển được Bảo Long. Cuối cùng ông Bảo Đại phải dùng con dấu “Việt Nam ngự tiền văn phòng” của ông Nguyễn Đệ thay cho khuôn dấu của vị Hoàng đế nước Nam.
Theo các tác phẩm “Qua Pháp tìm Huế xưa” và “Hỏi chuyện đời bà thứ phi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại” của Nguyễn Đắc Xuân, thì cặp ấn kiếm Bảo Long giữ được gửi tủ sắt của Liên hiệp Ngân hàng châu Âu (Union des banques européennes). Sau ngày xuất bản cuốn Le Dragon d’ Annam (1980) và sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (1982), ông Bảo Đại làm đơn kiện con trai Bảo Long đòi lại cặp ấn kiếm. Toà xử Bảo Long được giữ cây kiếm và giao lại chiếc ấn cho Bảo Đại. Đó chính là chiếc ấn lịch sử mà cả dân tộc Việt Nam đã và đang quan tâm.
Bà Mộng Điệp kể: “Chính tay tôi đã lau chùi cặp ấn kiếm khi ông Lê Thanh Cảnh đi tàu bay từ Hà Nội đem lên Ban Mê Thuột giao cho tôi. Cái kiếm bị gãy làm đôi. Tôi nhờ hai người hầu cận là anh Tứ Lang và anh Thừa Tể đi hàn lại. Hai anh đem cái kiếm đi hàn rồi nhờ người ta mài để không còn thấy dấu vết gãy. Còn cái ấn bằng vàng, chính tay tôi cân nặng 12,9 kg. Cái núm ấn hình con rồng. Con rồng uốn cong và ngóc đầu lên. Con rồng không được sắc sảo lắm, có đính hai hạt ngọc đỏ, trông giống như con rắn”.
Theo ông Trần Huy Liệu, chiếc ấn nặng 7 kg vàng. Ông Phạm Khắc Hoè viết: “chiếc quốc ấn bằng vàng (ấy) nặng gần 10 kilôgam”. Theo Lê Văn Lân, tác giả cuốn “Chiếc bảo ấn cuối cùng của Hoàng đế Việt Nam” (xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1998) thì chiếc ấn nặng 280 lượng 9 chỉ 2 phân vàng mười tuổi = 10,534 kg vàng. Chiếc ấn lịch sử ấy có tên là Hoàng đế chi bửu, hình vuông, mỗi cạnh dài 12 cm; dày 2 cm; cuốn núm hình con rồng lượn cong. Ấn Hoàng đế chi bảo đúc năm Minh Mạng thứ tư (1823); được đóng lên các bản cáo dụ quan trọng ban xuống.
Còn chiếc kiếm, cũng theo tài liệu của Lê Văn Lân, trên vỏ có khắc dòng chữ “Khải Định niên chế”. Tức là chiếc kiếm ra đời trong khoảng các năm từ 1916-1925. Chuôi kiếm nạm ngọc. Hình dáng chung của kiếm rất đẹp. Giá trị vật chất cũng như niên đại của cây bảo kiếm không bao nhiêu, nhưng nó được xem là quốc bảo vì giá trị lịch sử. Đó là một vật chứng quan trọng góp phần khẳng định sự thành công vang dội của cuộc Cách mạng Dân chủ tháng Tám năm 1945.
“Chính tay tôi đã lau chùi cặp ấn kiếm khi ông Lê Thanh Cảnh đi tàu bay từ Hà Nội đem lên Ban Mê Thuột giao cho tôi. Cái kiếm bị gãy làm đôi. Tôi nhờ hai người hầu cận là anh Tứ Lang và anh Thừa Tể đi hàn lại. Hai anh đem cái kiếm đi hàn rồi nhờ người ta mài để không còn thấy dấu vết gãy. Còn cái ấn bằng vàng, chính tay tôi cân nặng 12,9 kg. Bà Mộng Điệp kể |