Kinh tế

Chi tiêu Chính phủ: Bội chi tăng cao, quỹ lương tăng nhanh

Việc bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao đã làm tăng mức nợ công, rút ngắn kỳ hạn nợ và làm tăng gánh nặng trả nợ cho ngân sách, làm dấy lên quan ngại về khả năng bền vững tài khóa trong trung hạn.

Việc bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao đã làm tăng mức nợ công, rút ngắn kỳ hạn nợ và làm tăng gánh nặng trả nợ cho ngân sách, làm dấy lên quan ngại về khả năng bền vững tài khóa trong trung hạn.

(Ảnh minh hoạ).

Sáng 3/10, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố báo cáo đánh giá chi tiêu công tại Việt Nam. Báo cáo đánh giá được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng dư địa tài khóa bị thu hẹp, bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao có ảnh hưởng lớn đến khả năng bền vững tài khóa trong trung hạn.

Trong khi đó, mức động viên thu ngân sách Nhà nước so với GDP đang có xu hướng giảm, nhất là tỷ trọng thu từ thuế và phí, trong khi nhu cầu chi ngân sách thời gian qua tăng nhanh, đặc biệt là chi đảm bảo mạng lưới an sinh xã hội và quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.

Bên cạnh đó, với tốc độ mở cửa nền kinh tế nhanh, kết hợp với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý đã làm cho công tác quản lý kinh tế - tài chính trở lên phức tạp hơn.

Theo báo cáo, quá trình đổi mới mạnh mẽ đã đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển nhanh nhưng cùng với đó là nhu cầu chi tiêu tăng cao, bao gồm cả mở rộng diện đối tượng và cải thiện chất lượng các dịch vụ công, đảm bảo an sinh xã hội khi dân số già hóa nhanh, trong khi vẫn đảm bảo đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.

Bội chi tăng cao, quỹ lương tăng nhanh

Hệ quả của các xu hướng trên dẫn đến dư địa tài khóa bị thu hẹp. Bội chi ngân sách bình quân trong giai đoạn 2011-2015 lên đến 5,6% GDP, cao hơn đáng kể so với các giai đoạn trước. Việc bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao đã làm tăng mức nợ công, rút ngắn kỳ hạn nợ và làm tăng gánh nặng trả nợ cho ngân sách, làm dấy lên quan ngại về khả năng bền vững tài khóa trong trung hạn.

Cụ thể, tốc độ tăng thu trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015 (sau khi loại trừ yếu tố tăng giá), tuy vẫn tích cực, những đã chậm hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo đó, tỷ lệ thu từ NSNN so GDP đã giảm từ 26,4% trong giai đoạn 2006-2010 xuống 23,4% trong giai đoạn 2011-2015, nguyên nhân chủ yếu là do giảm thu từ dầu thô (từ 4,8% xuống 3%), từ hoạt động xuất nhập khẩu (5,5% xuống 4,2%), và các khoản thu về đất (2,5% xuống còn 1,7%).

Trong khi đó, chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Tổng chi NSNN – bao gồm cả chi từ nguồn trái phiếu – bình quân chiếm 29,2% GDP trong giai đoạn 2011-2015, so với 28,9% trong giai đoạn trước và ở mức cao so với khu vực và các quốc gia có mức phát triển tương đương. Cơ cấu chi thay đổi theo hướng chi thường xuyên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Tỷ lệ so sánh giữa chi thường xuyên và đầu tư là khoảng 70:30 trong thời kỳ 2011-2015 so với 63:37 của thời kỳ 2006-2010. Chi thường xuyên tăng lên và cao hơn mức tăng thu chủ yếu là do tăng chi để thực hiện các chính sách mới về an sinh xã hội, chi lương và phụ cấp và chi trả lãi các khoản vay.

Đáng lưu ý, theo báo cáo, quỹ lương tăng nhanh, chiếm khoảng khoảng 20% tổng chi ngân sách, chủ yếu do tăng lương cơ sở và tăng số lượng công chức, viên chức, đặc biệt ở địa phương, với tốc độ cao hơn tốc độ tăng dân số, đặc biệt là ở cấp địa phương. Mặc dù so sánh quốc tế cho thấy tỷ lệ chi lương cho công chức, viên chức của Việt Nam chưa quá cao nhưng xu hướng chi lương tăng nhanh cho thấy cần phải thận trọng.

Chi đầu tư, mặc dù giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu NSNN, nhưng vẫn được duy trì ở mức cao so với khu vực và thế giới. Nếu so với tổng đầu tư toàn xã hội, chi đầu tư từ NSNN chiếm 29,1% trong giai đoạn 2011-2015, tăng nhẹ so với mức 28,4% của thời kỳ 2006-2010, cho thấy đầu tư của Nhà nước vào hạ tầng công cộng vẫn tiếp tục được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện đang còn ở mức thấp, chưa phát triển.

Cần phải tinh giản bộ máy, củng cố tài khoá

Báo cáo cũng chỉ ra rằng, hiện có nhiều cơ hội để nâng cao hiệu suất chi tiêu, thông qua việc tinh giản, cơ cấu lại bộ máy của khu vực công và giảm các chi phí đầu vào khác trong các lĩnh vực chính của nền kinh tế như giáo dục, y tế, khoa học-công nghệ, nông nghiệp và giao thông.

Ngoài ra, phân bổ và chi tiêu NSNN trong từng ngành còn chưa thực sự gắn kết với lợi thế cạnh tranh và chiến lược phát triển của quốc gia và từng tiểu ngành. Tình trạng thiếu gắn kết giữa chi đầu tư xây dựng mới và chi hoạt động, duy tu, bảo dưỡng, đã tồn tại khá lâu ở hầu hết các ngành, song chưa có nhiều tiến triển trong những năm gần đây.

"Việt Nam đang tích cực theo đuổi một loạt các chính sách liên quan với nhau, nhằm cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ, tăng thêm lựa chọn về dịch vụ cho người dân, giảm gánh nặng tài chính của Nhà nước, và từng bước hợp lý hóa vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa công cộng. Tuy nhiên, hiện còn tồn tại rủi ro đối với người dân, đặc biệt là những đối tượng dễ bị tổn thương, về khả năng bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ cơ bản do mức thu phí tăng", báo cáo đánh giá.

Trong 68 khuyến nghị cho Chính phủ, báo cáo chỉ ra rằng, Chính phủ cần xây dựng và thực hiện một lộ trình củng cố tình hình tài khóa, để đảm bảo sự bền vững tài khóa song không hoặc ít ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải có cam kết mạnh mẽ về giảm bội chi và duy trì nợ công trong phạm vi giới hạn cho phép (65% GDP).

Các phương án củng cố tình hình tài khóa có thể được cân nhắc trên cơ sở phối hợp các biện pháp nhằm đẩy mạnh huy động thu, tái cơ cấu và nâng cao hiệu suất chi tiêu, tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng và khai thác tài sản công, quản lý nợ công và rủi ro tài khóa. Tái cơ cấu chi tiêu công cũng cần đảm bảo các khoản chi an sinh xã hội, đầu tư phát triển và dành dư địa cho các chi phí tái cấu trúc nền kinh tế (nếu phát sinh).

Theo Phương Dung (Dân Trí)